BÀI ĐỌC I: G 38, 1. 12-21; 40, 3-5
“Ngươi có xuống tận đáy biển và đi bách bộ dưới vực thẳm không?”
Trích sách ông Gióp.
Từ cơn gió lốc, Chúa đáp lời ông Gióp rằng: “Sau khi ngươi đã sinh ra, ngươi có ra lệnh cho bình minh, và chỉ chỗ cho rạng đông không? Ngươi có cầm giữ các phần cuối cùng trái đất, và xua đuổi khỏi địa cầu bọn gian ác không? Mặt đất trở nên như đất sét có đóng ấn và trải ra như chiếc áo. Bọn gian ác bị tước mất sự sáng, và cánh tay giơ cao bị bẻ gẫy.
“Ngươi có xuống tận đáy biển, và đi bách bộ dưới vực thẳm không? Cửa tử thần có mở ra cho ngươi và ngươi có nhìn thấy tối tăm không? Ngươi có xem xét chiều rộng địa cầu không? Nếu ngươi đã hiểu biết, hãy chỉ mọi sự cho Ta. Sự sáng ở đàng nào và sự tối tăm ở nơi đâu, để ngươi dẫn dắt cả hai đến địa giới của chúng, và hiểu biết đường lối nhà chúng? Bấy giờ ngươi có biết ngươi sẽ sinh ra không? Và ngươi có biết rõ số ngày đời ngươi không?”
Ông Gióp thưa lại cùng Chúa rằng: “Con nói lơ đãng, thì con trả lời thế nào được? Con để tay trên miệng con. Con đã nói một lần, chớ chi con đừng nói! Và lần thứ hai, con không nói thêm gì nữa”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 138, 1-3. 7-8. 9-10. 13-14ab
Đáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời (c. 24b).
1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con, lúc con ngồi, khi con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con.
2) Con đi đâu để xa khuất được thần linh của Chúa? Con trốn đâu cho khỏi thiên nhan Ngài? Nếu con leo được lên trời, thì cũng có Ngài ngự đó; nếu con nằm dưới âm phủ, thì đây cũng có mặt Ngài.
3) Nếu con mượn đôi cánh của hồng đông, và bay đến cư ngụ nơi biên cương biển cả, tại nơi đây cũng bàn tay Chúa dẫn dắt con, và tay hữu Ngài nắm giữ con.
4) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thật diệu huyền.
ALLELUIA: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! – Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 10, 13-16
“Ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Khốn cho ngươi, hỡi Corozain, khốn cho ngươi, hỡi Bethsaiđa: vì nếu tại Tyrô và Siđon đã xảy ra những phép lạ thực hiện nơi các ngươi, thì từ lâu, những nơi đó đã mặc áo vải thô và ngồi trên tro bụi mà sám hối. Cho nên trong ngày thẩm phán, Tyrô và Siđon sẽ được nhiêu dung hơn các ngươi.
“Còn ngươi nữa, hỡi Capharnaum, phải chăng ngươi sẽ được nâng cao đến tận trời? Ngươi sẽ phải hạ thấp xuống tới địa ngục.
“Ai nghe các con, tức là nghe Thầy, và ai khinh dể các con, là khinh dể Thầy. Mà ai khinh dể Thầy là khinh dể Đấng đã sai Thầy”. Đó là lời Chúa.
(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
++++++++++++++++++
04/10/2024 – THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 26 TN
Th. Phan-xi-cô Át-xi-di Lc 10,13-16
KHƯỚC TỪ HAY ĐÓN NHẬN
“Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy.” (Lc 10,16)
Suy niệm: Sau khi Chúa Giê-su đưa ra những chỉ thị để sai 72 môn đệ đi rao giảng, thánh sử Lu-ca cho biết Ngài than khóc cho các thành Kho-ra-din, Bết-xai-đa và Ca-phác-na-um, bởi vì họ được nghe lời Ngài giảng dạy cũng như chứng kiến bao phép lạ Ngài làm, thế mà họ vẫn không hối cải. Qua đó, Chúa ngầm báo trước cho các môn đệ rằng họ, cũng giống như Thầy, sẽ gặp phải những con người cứng lòng như thế khi thi hành sứ vụ. Dù thế nào đi nữa, họ đừng nản chí sờn lòng; trái lại hãy luôn xác tín rằng sứ vụ của họ là hết sức cao cả bởi vì khước từ hay đón nhận lời họ rao giảng chính là khước từ hay đón nhận Đức Giê-su, Đấng đã sai họ, và do đó cũng có nghĩa là khước từ hay đón nhận chính Chúa Cha là “Đấng đã sai Thầy”.
Bạn thân mến, Lời Chúa được loan báo cho bạn bằng nhiều cách: trong mỗi một thánh lễ, trên các phương tiện truyền thông hay qua việc bạn suy niệm hằng ngày, Chúa vẫn nói với bạn. Chúa kêu gọi bạn đừng cứng lòng cũng đừng nản lòng. Ngài cho bạn hoàn toàn tự do để đón nhận hay khước từ lời mời gọi để lắng nghe và sống theo Lời Ngài. Đồng thời, khi bạn là người môn đệ trung thành loan báo Tin Mừng, bạn “sẽ được gấp trăm ở đời này và được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp” (Mt 19,29).
Sống Lời Chúa: Luôn dành thời gian mỗi ngày để đọc và suy niệm Lời Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn con. Xin giúp con mở rộng lòng đón nhận và thực thi Lời Chúa truyền dạy, để được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm:
Tin Mừng hôm nay kể lại một kinh nghiệm không vui của Đức Giêsu,
Kinh nghiệm của một người tận tụy với công việc tông đồ
nhưng sau thời gian dài chờ đợi, kết quả lại không như ý.
Đức Giêsu là người vùng Galilê, hẳn Ngài yêu vùng đất này.
Ngài thường lui tới những thành phố quanh Hồ Galilê.
Khoradin, Bếtsaiđa, Caphácnaum nằm trong số đó.
Ngài đã rao giảng nhiều về sám hối (7, 36-50; 13, 1-5; 19, 1-10),
và Ngài cũng làm bao phép lạ kèm theo để gọi mời hoán cải.
Có thể nhiều người bị đánh động khi nghe lời Ngài giảng
và bị thu hút bởi các phép lạ Ngài làm.
Nhưng đối với Đức Giêsu, như thế vẫn chưa đủ.
Tất cả vẫn chỉ là hời hợt của cảm xúc bên ngoài.
Điều Ngài đòi hỏi là biến đổi tận căn bên trong cuộc sống.
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin!
Khốn cho ngươi, hỡi Bếtsaiđa!
Đức Giêsu đau đớn thốt lên như thế
khi phải so sánh hai thành phố trên với hai thành phố dân ngoại tội lỗi là Tia và Xiđôn (Is 23; Ed 26-28).
Hai thành phố ở Galilê chẳng đổi gì mấy dù đã biết Ngài từ lâu.
Dân ở đây sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn trong cuộc phán xét.
Thành phố Caphácnaum cũng chẳng khá hơn,
dù đây là nơi Đức Giêsu hay lui tới để phục vụ (Lc 4, 23. 31-37 ; 7,10).
Ngài đặt thẳng câu hỏi với thành phố này về tương lai của nó (c. 15).
Đừng mong được nâng đến tận trời, nhưng sẽ bị xuống tận âm phủ!
Đức Giêsu có kinh nghiệm về thất bại trong việc tông đồ.
Ngài cũng nhắc các môn đệ về chuyện đó (Lc 10, 10-12).
Không được tiếp đón, bị từ khước, không được người ta nghe (c.16),
thậm chí có khi bị bách hại, bị vu khống, bị giết chết.
Đó là những điều người môn đệ tín trung vẫn thường gặp,
vì Thầy của họ đã trải qua và vượt qua.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói chuyện với các thành phố,
những nơi thân quen, đã mang dấu chân Ngài.
Ngài lấy làm tiếc vì những gì Ngài làm chưa thấm vào bề sâu,
chưa tạo ra được những thay đổi nơi lòng thành phố.
Một sám hối thật sự không phải chỉ là một sám hối cá nhân,
nhưng là sám hối nơi sinh hoạt của cả một thành phố.
Nếu hôm nay Ngài đến với thành phố của chúng ta Ngài sẽ nói gì?
Ngài có chỗ không ở mọi nơi người Kitô hữu đang sống,
đang làm việc, đang học hành, đang vui chơi, đang cầu nguyện?
Sám hối là trả lại chỗ cho Ngài trong mỗi góc phố vắng,
là giữ cho thành phố xanh-sạch-đẹp theo nghĩa thiêng liêng nhất.
Ước gì chúng ta biết xây dựng quanh ta
những khoảng không gian tràn ngập sự hiện diện của Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
việc tông đồ của con phải là việc tông đồ diễn tả lòng tốt.
để khi thấy con, người ta phải nói:
“vì anh này tốt quá, nên đạo của anh phải là đạo tốt.”
Và nếu có ai hỏi con tại sao con lại hiền lành và tốt như thế,
con sẽ trả lời vì con là tôi tớ của một đấng tốt hơn con nhiều.
“Mong sao bạn biết được Chủ Giêsu của tôi tốt biết bao!”
Con muốn sống thật tốt, để người ta có thể nói:
“nếu tôi tớ mà tốt như vậy, thì Chủ sẽ tốt đến ngần nào ?”
(Chân phước Charles Foucauld)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG MƯỜI
Thánh Phanxicô Assisi, Một Kiến Trúc Sư Của Hoà Giải
Khuôn mặt Thánh Phanxicô Assisi đem lại cho cuộc hành trình nhân loại của chúng ta một sắc thái Kitô giáo. Ngài tranh thủ ơn phúc hòa bình của Phúc Aâm, và qua đó ngài giúp những tâm hồn ly cách được hòa giải với Giáo Hội và xã hội.
Lối sống nghèo của Asissi thật vô cùng phong phú giữa những nẻo đường nên thánh của Kitô giáo. Không thể chối cãi rằng một trong những sứ điệp cảm kích – mà Thánh Phan-xi-cô vừa sống cách triệt để vừa tiếp tục làm vang dội trong lương tâm của con người thời đại – đó là nỗi khát khao bỏng cháy đối với hòa bình.
Sau khi toàn tâm dấn mình theo tiếng gọi của Thiên Chúa, ngài và các môn đệ đầu tiên của ngài rảo qua các thành thị, làng mạc. Thầy trò dừng lại ở các quảng trường và các khu dân cư, lặp đi lặp lại mấy tiếng hết sức đơn sơ nhưng vô cùng hàm súc: an bình và hạnh phúc. Mấy tiếng ấy được nói lên không chỉ đơn thuần như một điều khát khao, nhưng còn như một lời cam kết dấn thân thúc bách các thính giả của ngài, những người thường bị rơi vào tình trạng phân hóa và xung đột: tôn giáo này chống tôn giáo kia, thành phố này đối đầu với thành phố nọ, xung đột giữa các xóm thôn, các gia đình.
Ở nước Ý thời Trung Cổ có một từ ngữ được khơi lên và gây âm vang rất lớn, một từ rất đơn sơ tầm thường song cũng cưu mang rất nhiều sức mạnh, sức mạnh của Tin mừng. Đó là một từ của Thánh Phan-xi-cô Assisi. Ngài là một con người được Bà Chúa Nghèo yêu mến, một con người thực sự là anh em chân tình của bất cứ ai mà ngài gặp gỡ.
Người tu sĩ khiêm tốn này được những người đương thời đánh giá là “con người mới, được gởi xuống từ trời cao” (FF 1212). Trong tinh thần của Đức Kitô, ngài thậm chí tự nguyện trở thành nhịp cầu nối giữa Kitô giáo và Hồi giáo, đến độ ngài đã đi viếng thăm vua Ai cập, Melek-el-Kamel. Ngài mong muốn đảm nhận vai trò của một ngôn sứ đích thực để loan báo cho nhà vua sứ điệp của Con Thiên Chúa nhập thể.
Chúng ta có thể nói rằng thánh Phanxicô không chỉ là một sứ giả. Bởi hơn thế nữa, ngài là nhà xây dựng và là kiến trúc sư của hoà giải và hoà bình. Ngài nói: “Chúa đã mặc khải cho tôi lời chào mà chúng tôi vẫn sử dụng, đó là ‘Xin Chúa ban bình an cho bạn’” (FF 121). Tôma Celano, người viết tiểu sử của ngài, đã khắc họa dung mạo nghèo khó nơi ngài như sau: “Trong các bài giảng, trước khi chia sẻ lời Chúa cho mọi người, ngài luôn diễn tả khát vọng hòa bình, ngài nói: ‘Xin Chúa ban bình an cho anh chị em! Ngài loan báo sự bình an này cách chân thành cho mọi người nam cũng như nữ, cho tất cả những ai ngài gặp gỡ. Bằng cách đó, nhờ ân sủng Chúa, ngài thường thành công trong việc giúp cho những người chống lại hòa bình và chống lại ơn cứu độ của chính họ trở thành con cái của hoà bình và biết khát khao ơn cứu rỗi đời đời” (FF 359).
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 04/10
Thanh Phanxicô Assisi
G 38, 1. 12-21; 40, 3-5; Lc 10, 13-16.
Lời Suy Niệm: “Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy.” (Lc 10,16).
Chúa Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đi, ngay từ đầu sứ vụ của Người, Người cũng đã chọn lấy cho Người những người môn đệ, để được ở với Người, được Người chỉ dạy và sai đi. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được trong sứ vụ của các Tông Đồ, được liên kết từ Chúa Cha và Chúa Giêsu nên một trong cùng một sứ vụ.
Lạy Chúa Giêsu, toàn thể Hội Thánh có đặc tính tông truyền: “Được sai đi” khắp thế gian để loan báo Tin Mừng. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con ý thức mình là chi thể của Hội Thánh, tuy mỗi người có ơn gọi khác nhau, nhưng luôn phải hiệp thông trong đức tin và sự sống, để mọi người nhận biết chúng con là môn đệ của Chúa. Amen.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 04-10
Thánh PHANXICÔ ASSISIS
(1181 – 1226)
Thánh Phanxicô sinh tại Assisi, miền Umbria, năm 1181. Ong Phêrô Bernadone là một thương gia giầu có, lúc sinh ra thánh nhân, ông đang ở Pháp, nên đã đặt tên cho Ngài theo tên quốc gia này. Thời thơ ấu, thánh nhân chịu ảnh hưởng nhiều bởi người mẹ nhiệt thành và khả ái. Ngài tỏ ra vui vẻ, mạo hiểm, quảng đại và bình dân. Dầu được chuẩn bị để theo nghề buôn bán như cha, Ngài vẫn thường mơ ước trở thành hiệp sĩ.
Năm 1201, Phanxicô tham gia cuộc chiến ở Perugia và bị bắt tù một năm. Kinh nghiệm đau xót này cùng với cơn bệnh ngặt nghèo là khởi đầu cuộc trở lại của Ngài. Dầu vậy, năm 1205, Ngài vẫn còn tham dự vào cuộc viễn chinh tại Apulia. Trong một giấc mơ, Phanxicô được Chúa Kitô mở lời kêu gọi phục vụ Người. Ngài trở về và hiến mình chăm sóc các bệnh nhân.
Ngày 16 tháng 4 năm 1206, Phanxicô lại nghe tiếng Chúa Kitô kêu gọi Ngài tái thiết đền thờ thánh Damianô. Luôn mau mắn và tận tâm, Phanxicô đã từ bỏ đời sống cũ và chấp nhận sống như một ẩn sĩ. Khi bị cha bỏ tù, rồi dẫn đến đức giám mục như một đứa con bất phục, thánh nhân đã từ khước mọi quyền lợi lẫn của cải, cả đến áo quần đang mặc nữa.
Hai năm sau, có lẽ vào ngày 24 tháng 2 năm 1209, Ngài nghe đọc đoạn Tin Mừng Mt 10,9 và thấy mình được ơn gọi đi rao giảng sự thống hối. Đây là giây phút quyết liệt. Thánh nhân cởi bỏ tu phục ẩn sĩ, mặc áo vải thô, thắt giây lưng và bắt đầu rao giảng Chúa Kitô. Có hai người bạn đi theo, Ngài cho họ một bản luật gồm ba câu thánh kinh Mt 20,21; 10,9 và Lc 9,23. Khi con số môn sinh lên tới 11, Ngài viết cho họ một bản luật vắn (bản Primitiva, nay đã thất lạc), và dân họ tới Roma để được Đức Giáo hoàng phê chuẩn.
Đức giáo hoàng Innocentê III, sau phút ngập ngừng, đã nhận ra nơi người giáo dân ngay thật và nhiệt tình này một tông đồ chân chính, và ban lời chuẩn nhận (tháng 6 năm 1210). Nhóm huynh đệ trở về Assisi. Họ sống trong những chiếc chòi ở Rivetortô. Gần Porziuncola và rao giảng sư thống hối trên khắp nước Ý. Đầy đơn sơ, họ làm đủ mọi việc và sống bằng nghề ăn xin. Chính sự đơn sơ như thiên thần của Phanxicô mà họ coi là hiền huynh và hiền mẫu, là gương sống hứơng dẫn họ trên đường thiêng liêng. Chưa có một tổ chức nào cả, với phép của Phanxicô, họ đi khắp nơi, như các anh em thống hối nghèo miền Assisi.
Năm 1212, Phanxicô khích lệ Clara, một thiếu nữ danh giá trong thành phố, thiết lập nhóm chị em sống đời nghèo khó và cầu nguyện ở nhà thờ thánh Damianô. Họ đã trở thành các bà nghèo khó và ngày nay gọi là các nữ tu Clara.
Không bao giờ Phanxicô muốn lập một “Hội dòng”. Ngài chỉ muốn theo Chúa Kitô trong các sách Tin Mừng một cách hoàn toàn đến từng chữ viết. Dầu vậy, nhóm huynh đệ đã theo một hình thức tu dòng nào đó. Họ đọc kinh nhật tụng, ngủ và ăn chung như các tu sĩ. Khi nhóm huynh đệ đã tăng số cách lạ lùng, mau chóng, Phanxicô phải ủy quyền cho các người lãnh đạo mà Ngài gọi là “Hiền mẫu” hay là “tôi tớ” của các nhóm. Hàng năm các anh em họp nhau một lần tại Porziuncola.
Năm 1216, Phanxicô tham dự đám táng Đ. G.H Innocentê III và được Đức Honoriô IV ban ân xá cho thánh đường Perziuncola. Năm sau, Ngài được cảm tình của đức Hồng y Ugôlinô, là đấng sẽ trung tín bảo trợ Ngài mãivề sau.
Năm 1219. Nhóm huynh đệ tăng số đông đảo và phải chia thành nhiều tỉnh dòng. Cánh đồng truyền giáo đầu tiên của nhóm vượt qua rặng núi Alpes.
Chính Phanxicô, bất chấp những cân nhắc khôn ngoan, đã bỏ nước Ý để tham gia thập tự quân và đã đến gặp Sultan. Trong khi Ngài vắng mặt, nhóm huynh đệ gồm nhiều học viên mới, có học thức và thuộc hàng giáo sĩ, họ như con thuyền không lái và rơi vào cuộc khủng hoảng. Vấn đề chỉ giải quyết xong khi kêu mời Phanxicô trở về, nhờ tài khéo léo của Đức hồng y Ugôlinô, và nhóm phải chọn một khuôn mẫu thông thường của đời sống tu trì.
Trước sức ép liên tục, bây giờ Phanxicô phải viết một bản luật chi tiết hơn (bản Regula Prima) dầu vậy, bản luật này vẫn còn quá đơn sơ và đòi hỏi các người lãnh đạo mới của cộng đoàn về đàng thiêng lêng. Sau khi sửa lại, bản luật mới này được đức giáo hoàng Honoriô III chấp nhận năm 1223 (bản Rehula Secunda hay Bullata nay vẫn còn được xử dụng) Trong khi đó, Phanxicô trở nên yếu đau và lo âu. Ngài trao quyền quản trị nhóm huynh đệ cho người đại diện. Từ năm 1221, anh Elia đầy bí nhiệm đảm nhận chức vụ.
Chính Phanxicô lại lui vào trong núi. Ngày 14 tháng 9 năm 1224, sau một thời sống ẩn dật, Ngài đã được Chúa Kitô in dấu. Từ đây, bệnh tình Ngài tăng thêm và trở nên mù lòa hầu như hoàn toàn. Ngài được bốn anh em trung tín mang đi đây đó. Có lẽ vào năm 1224, Ngài đã viết “bài ca mặt trời”. Năm 1226, Ngài viết chúc thư (testament) long trọng nhấn mạnh đòi buộc sống nghèo khó tuyệt đối, vâng lời luật dòng đến từng chữ viết và từ khước mọi đặc ân.
Ngày 02 tháng 10 năm 1226, sau khi viếng thăm Clara cùng các nữ tu và chúc lành cho thành Assisi, Ngài từ trần tại Porziuncola. Hai năm sau Ngài được bạn cũ là Ugôlinô bấy giờ là ĐGH grêgoriô IX tôn phong lên hàng hiển thánh. Năm 1228, xác Ngài được dời về mai táng tại đại giáo đường do anh Elia xây cất.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
04 Tháng Mười
Bí Quyết Trẻ Trung
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Phanxicô Assisi.
Sống cách chúng ta trên 7 thế kỷ, thánh Phanxicô Assisi vẫn mãi mãi để lại một hình ảnh trẻ trung. Chưa có vị thánh nào trong Giáo Hội được nhắc nhở, yêu mến như thánh nhân. Chưa có vị thánh nào đã gợi lên nhiều cảm hứng cho văn chương, nghệ thuật cho bằng thánh nhân. Chưa có vị thánh nào được các nhà chính trị, các nhà cách mạng ca tụng cho bằng thánh nhân.
Sứ điệp của thánh nhân siêu việt thời gian, bởi vì con người của thánh nhân là hiện thân của tuổi trẻ. Thật thế, suốt cả cuộc đời của mình, thánh Phanxicô Assisi luôn biết giữ một tâm hồn tươi trẻ. “Tuổi tác không phải là điều kiện thể lý cho bằng bầu khí của tâm hồn”. Có lẽ thánh nhân không phải là người đã nói lên châm ngôn ấy, nhưng hẳn ngài đã sống theo châm ngôn ấy.
Ngài biết giữ mãi cho tâm hồn tươi trẻ bằng cách hạn chế tối đa các nhu cầu, bằng cách chống cự lại các ước muốn. Ngài đón nhận mọi sự. Không thắc mắc, không lo lắng, không buồn giận.
Những khám phá của khoa học tâm lý ngày nay, thánh Phanxicô Assisi đã từng biết và sống một cách trọn vẹn. Thật thế, để có một thể xác lành mạnh, một tâm hồn tươi trẻ, các nhà tâm lý học khuyên chúng ta như sau:
– Hãy tập yêu thích những gì không quá đắt giá.
– Hãy tập yêu thích việc đọc sách, chuyện vãn, nghe nhạc.
– Hãy tập yêu thích những thức ăn thanh đạm.
– Hãy tập yêu thích tiếng chim hót, sự hiện diện của thú vật, tiếng cười đùa rộn rã của trẻ em.
– Hãy tập yêu thích trồng trọt, làm việc tay chân.
– Hãy tập yêu thích ánh bình minh cũng như hoàng hôn, tiếng mưa rơi trên mái nhà cũng như cảnh tuyết rơi.
– Hãy tập yêu thích những nhu cầu đơn giản nhất.
– Hãy tập yêu thích công việc và cảm nhận được niềm vui khi làm tốt một công việc.
– Hãy tập yêu người, dù người không giống ta.
Không khí, ánh sáng, mặt trời, niềm vui, hạnh phúc, cuộc sống, con người: đó là những yếu tố cần thiết để tạo cho bầu không khí tươi trẻ trong tâm hồn. Phải chăng đó không là những yếu tố mà người ta cũng bắt gặp trong bài ca vạn vật của thánh Phanxicô Assisi?
Một tâm hồn luôn luôn tươi trẻ: đó không chỉ là một bí quyết để được hạnh phúc trên đời này, nhưng còn là một đòi hỏi đối với người Kitô. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống chúng. Ta nói thật với các con: nếu các con không đón nhận nước Trời như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời”.
(Lẽ Sống)